Bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, bởi ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực kỳ mạnh, vì vậy, bệnh bạch hầu là một loại bệnh vừa mang tính chất cấp tính vừa mang tính chất cấp cứu (bạch hầu thanh quản, viêm cơ tim cấp nếu không cấp cứu kịp thời bệnh nhân sẽ tử vong do nghẹt thở, suy hô hấp và suy tim)
Đường lây truyền của vi khuẩn bạch hầu rất dễ dàng, đó là lây theo đường hô hấp bởi giọt bắn từ người bệnh, người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Khi nói, ho, những người này sẽ bắn vi khuẩn có trong nước bọt, chất tiết, đờm... vào không khí, người lành hít phải, nếu chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu, sẽ mắc bệnh (ngay cả người lớn). Giọt bắn này còn làm lây lan vi khuẩn ra môi trường xung quanh như: sàn nhà, quần áo, chăn màn, tay vịn cầu thang, đồ chơi trẻ em... từ đây sẽ lây bệnh cho người lành, nhất là trẻ em nếu chưa có miễn dịch chống lại vi khuẩn bạch hầu.
Nhận biết bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu có 3 loại (thể) bệnh bạch hầu chính: bạch hầu họng, bạch hầu thanh quản và bạch hầu ác tính. Loại hay gặp nhất là bạch hầu họng, mũi. Ở loại này thời kỳ nung bệnh khoảng vài 3 ngày, sau đó có sốt nhẹ, sổ mũi, viêm họng, nuốt vướng, sau vài ngày sẽ xuất hiện màng trắng ngà (giả mạc), xám, dai, dính chặt vào niêm mạc họng rất khó bóc tách, nếu cố bóc tách sẽ chảy máu. Giả mạc phát triển rất nhanh ở amiđan. Người bệnh có biểu hiện nhiễm độc độc tố (da xanh tái, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp giảm). Nếu được điều trị đúng, kịp thời, bệnh sẽ khỏi, nếu không, loại này sẽ tiến triển thành loại bạch hầu thanh quản, niêm mạc thanh, khí quản bị bao phủ bởi một lớp giả mạc gây khó thở cấp, dẫn đến suy hô hấp, tử vong (thường được ví là chết đuối trên cạn), nếu không được cấp cứu mở khí quản kịp thời.
Loại thứ ba là bạch hầu ác tính (bạch hầu cấp), xuất hiện ngay ngày đầu tiên hoặc ngày thứ 2, thứ 3, với các triệu chứng rất rầm rộ như sốt cao (39 - 400C) mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, màng giả lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch góc hàm sưng to, đau làm cổ bạnh ra. Bệnh nhân dần dần bị mệt lả, tím tái, rối loạn nhịp tim, khó thở, khan tiếng, huyết áp tụt, mạch rất nhanh, nếu không xử trí kịp thời có thể bệnh trở nên nguy kịch đe dọa tính mạng người bệnh (tử vong).
Biến chứng do bệnh bạch hầu gây ra
Biến chứng nguy hiểm nhất là suy tim cấp do viêm cơ tim. Biến chứng này có thể xảy ra vào thời kỳ bệnh toàn phát, thậm chí xảy ra muộn hơn sau vài tuần khi bệnh bạch hầu đã khỏi (hết sốt, hết giả mạc,...), tình trạng người bệnh sẽ rất nguy kịch.
Từ thể bạch hầu họng, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể lây lan thành bạch hầu thanh quản, một thể bệnh rất nguy hiểm, bởi vì, bị giả mạc che kín đường thở gây nghẹt thở, nếu không cấp cứu mở khí quản, người bệnh có thể tử vong do suy hô hấp cấp.
Bệnh bạch hầu có thể gây biến chứng viêm dây thần kinh vận động ngoại biên; có thể gây liệt các dây thần kinh sọ; gây liệt màn hầu khẩu cái; liệt mềm các chi; liệt cơ hoành, cơ liên sườn. Liệt cơ hoành, cơ liên sườn có thể dẫn đến viêm phổi, suy hô hấp .
Đã có biện pháp phòng bệnh bạch hầu hữu hiệu
Tuy bạch hầu là bệnh nguy hiểm nhưng chúng ta không nên quá lo lắng bởi nước ta đã có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu, đó là vắc-xin phòng bệnh bạch hầu. Do đó, người mắc bệnh bạch hầu là người chưa có miễn dịch chống lại vi khuẩn bạch hầu, để không mắc căn bệnh này cần được tiêm vắc-xin, trọng tâm là trẻ em. Do đó cần đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm chủng vắc-xin đủ mũi tiêm và đúng lịch. Bên cạnh đó, để góp phần ngăn chặn bệnh bạch hầu lây lan, mọi người, ngay cả trẻ em, cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu. Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học cần thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Cần vệ sinh thường xuyên sàn nhà, đồ chơi, tay vịn cầu thang. Khăn lau tay, khăn mặt dùng cho trẻ cần được giặt sạch, sát trùng (giặt bằng xà phòng, phơi nắng hoặc sấy khô). Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời. Mọi người dân trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm túc việc uống thuốc kháng sinh dự phòng và tiêm vắc-xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.